Sinh mổ - Khi nào là cần thiết và những ảnh hưởng lên mẹ và bé

Sinh mổ - Khi nào là cần thiết và những ảnh hưởng lên mẹ và bé

Khi chúng ta nghĩ về sinh nở thì đó thường là ‎ý nghĩ về sinh thường. Bé chui qua ống sinh một cách giản đơn và khoẻ mạnh. Đơn giản đó là con đường tự nhiên do tạo hóa mang lại. Tuy nhiên, không phải lúc nào mọi việc cũng xảy ra bình thường và tự nhiên. Tỷ lệ sinh mổ có xu hướng ngày càng gia tăng.

Khi chúng ta nghĩ về sinh nở thì đó thường là ‎ý nghĩ về sinh thường. Bé chui qua ống sinh một cách giản đơn và khoẻ mạnh. Đơn giản đó là con đường tự nhiên do tạo hóa mang lại. Tuy nhiên, không phải lúc nào mọi việc cũng xảy ra bình thường và tự nhiên. Tỷ lệ sinh mổ có xu hướng ngày càng gia tăng.

Tại Việt Nam ở các bệnh viện và thành phố lớn, trung bình trong một trăm trẻ sinh ra, khoảng 35-40 trẻ sinh ra bằng phương pháp mổ lấy thai. Một số nghiên cứu ngoài bệnh viện, cho thấy tỷ lệ sinh mổ khoảng 10%. Bên cạnh những trường hợp liên quan tới nguyên nhân y khoa, còn có rất nhiều trường hợp sinh mổ theo yêu cầu. Tuy nhiên, sinh mổ có thể trở thành phương pháp cần thiết nếu mẹ hoặc thai có một số vấn đề trước và trong thời gian sinh nở.

 Sinh mổ ngày càng phổ biến, chiếm tỉ lệ 10% trên tổng số ca sinh.


Sinh mổ định trước


Bác sỹ có thể lên kế hoạch cho ca sinh mổ khi phát hiện chỉ định sinh mổ trước khi chuyển dạ. Lí do sinh mổ có thể là một hoặc nhiều trường hợp sau đây:

- Bé không quay đầu xuống khi gần đến ngày sinh

- Mẹ có bệnh lý về tim mạch mà tình trạng có thể trở nên tệ hơn do quá trình chuyển dạ

- Mẹ bị bệnh nhiễm khuẩn có thể gây lây nhiễm cho bé trong khi sinh thường

- Mẹ mang thai nhiều bé cùng một lúc

- Mẹ sinh mổ nhiều lần trước đây

- Mẹ bị phẫu thuật tử cung trước đó

Sinh mổ không định trước

Tuy nhiên, đôi khi vấn đề nảy sinh trong quá trình chuyển dạ dẫn tới quyết định mổ lấy thai. Các chỉ định thường liên quan tới:

- Quá trình chuyển dạ chậm và khó khăn hoặc bị ngừng hoàn toàn

- Bé có các dấu hiệu suy thai như nhịp tim thai quá nhanh hoặc chậm

- Bé có kích thước quá to, mẹ không thể sinh thường

Các vấn đề liên quan tới nhau thai, là một cơ quan nuôi dưỡng bé trong bụng mẹ. Các vấn đề về nhau thai có thể là nguyên nhân gây băng huyết cho phụ sản nếu sinh thường.

Các ảnh hưởng lên mẹ

Mẹ và bé thường cảm thấy ổn thỏa sau khi sinh mổ. Trên thực tế, một số bà mẹ còn lựa chọn gây tê tại chỗ để có thể tỉnh táo đón chờ giây phút bé chào đời, và có thể bên cạnh bé ngay sau khi sinh. Tuy nhiên, so với các bà mẹ sinh thường, những bà mẹ sinh mổ thường có quá trình phục hồi sức khoẻ chậm hơn.

Ảnh hưởng lên bé

Trước đây, không có tài liệu ghi nhận về sự khác biệt rõ ràng giữa trẻ sinh thường và sinh mổ. Tuy nhiên, nguyên cứu gần đây ở Phần Lan cho thấy các phản ứng bảo vệ miễn dịch của trẻ sinh mổ không nhanh nhạy và hiệu quả bằng ở những trẻ sinh thường. Trẻ sinh mổ dễ bị các bệnh nhiễm khuẩn và dị ứng hơn trẻ sinh thường. Trong quá trình chuyển dạ, khi trẻ chui qua ống sinh và được tiếp xúc với vi khuẩn cơ thể mẹ, và các vi khuẩn có lợi được “cấy” vào đường ruột và nhờ vậy, hệ miễn dịch sớm được “thức tỉnh” do tiếp xúc với các vi khuẩn.

Ngược lại, trẻ sinh mổ do không được tiếp xúc với vi khuẩn đường sinh mẹ, các vi khuẩn có lợi bifidobacteria đường ruột bifidobacteria phát triển không vượt trội và phải tới 6 tháng sau tỷ lệ khu trú của vi khuẩn này mới bắt kịp các trẻ sinh thường. Đó có thể là l‎ý do vì sao trẻ sinh mổ thường bị các bệnh nhiễm khuẩn và dị ứng hơn trẻ sinh thường.

Tuy nhiên, tạo hóa luôn có cách giải quyết tốt nhất: đó là sữa mẹ. Trong những ngày đầu sau sinh, sữa non cung cấp một lượng kháng thể dồi dào. Sữa mẹ cũng chứa nhiều các vi khuẩn có lợi. Khi nuôi con bằng sữa mẹ, bạn đã giúp bé có được sự bảo vệ miễn dịch tốt nhất giúp chống lại các bệnh nhiễm khuẩn.

             
Bài được cung cấp bởi Nestle - chỉ đạo nội dung bởi PGS. TS. Nguyễn Đức    Hinh (Hiệu trưởng Trường Đại học Y Hà Nội)