Tại sao phải thụ tinh nhân tạo

Tại sao phải thụ tinh nhân tạo

Louise Brown là đứa trẻ đầu tiên trên thế giới sinh ra nhờ phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm vào năm 1978. Còn tại Pháp, bé Amandine là đứa bé đầu tiên sinh ra nhờ phương pháp thụ tinh nhân tạo tại nước này.

Thụ tinh nhân tạo dành cho ai?

Louise Brown là đứa trẻ đầu tiên trên thế giới sinh ra nhờ phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm vào năm 1978. Còn tại Pháp, bé Amandine là đứa bé đầu tiên sinh ra nhờ phương pháp thụ tinh nhân tạo tại nước này. Nhờ vào kỹ thuật này mà hàng năm trên thế giới có khoảng 50.000 trẻ em ra đời. Ðây là cứu cánh cho những cặp vợ chồng vô sinh mong muốn có con.

Ở người, thụ tinh " tự nhiên" xảy ra trong vòi Fallope của phụ nữ, sau quan hệ tình dục và đang thời kỳ phóng noãn. Ðể quá trình thụ tinh diễn ra, tinh trùng cần phải có đủ số lượng, di động tốt từ cổ tử cung đến vòi trứng sau khi đã vượt qua buồng tử cung. Vòi trứng cũng cần phải có tính thấm tốt và có một đầu mở vào trong ổ bụng gọi là các tai vòi, có khả năng bắt giữ trứng lúc phóng noãn. Những lông mao ở bên trong vòi trứng, cũng như sự cử động nhẹ nhàng của vòi trứng, cho phép trứng di chuyển từ từ trong vòi đến tiếp cận với tinh trùng.

Khác với tinh trùng, thật ra trứng không có khả năng tự di chuyển. Sau khi trứng thụ tinh với một tinh trùng, trứng sẽ được những cử động nhẹ nhàng của vòi trứng đưa trứng đã thụ tinh vào trong buồng tử cung, tại đó trứng sẽ làm tổ trong vòng 1 tuần.

Nơi gặp gỡ lạ lùng

Có nhiều bệnh có thể ảnh hưởng đến những cơ chế phức tạp khác nhau này và sự thụ tinh trong ống nghiệm ban đầu là chỉ dành cho những phụ nữ có những bất thường của vòi trứng. Nghe có vẻ đơn giản: chỉ cần tổ chức cho tinh trùng và trứng gặp nhau trong ống nghiệm, như vậy thuận lợi cho sự thụ tinh, sau đó phôi thu được sẽ được chuyển vào buồng tử cung.

Từ năm 1978, kể từ khi đứa trẻ đầu tiên sinh ra trong ống nghiệm, chỉ định thụ tinh trong ống nghiệm đã có những tiến bộ dần, kỹ thuật này không còn giới hạn cho những trường hợp bất thường ở vòi trứng nữa. Hiện nay, nhiều phụ nữ nhờ vào kỹ thuật thụ tinh nhân tạo " cổ điển"( nghĩa là không cần dùng kỹ thuật bơm tinh trùng vào bào tương của trứng hay còn gọi là ICSI), chỉ có dưới 50% có vòi trứng bệnh lý. Nguyên nhân của những bất thường vòi trứng này thì rất nhiều : di chứng nhiễm trùng sinh dục, dính vòi trứng sau mổ, thai ngoài tử cung. Trong 1/3 các trường hợp có kèm giảm chất lượng tinh trùng.

 Chỉ cần tinh trùng đồ bất thường là đã có chỉ định thụ tinh trong ống nghiệm theo cách cổ điển, chiếm 20% trường hợp, trong khi vòi trứng hoàn toàn bình thường. Những chỉ định khác của phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm cổ điển là lạc nội mạc tử cung(bệnh đặc trưng bởi sự hiện diện bất thường nội mạc tử cung trên phúc mạc chậu, và chủ yếu ở buồng trứng là nguyên nhân gây vô sinh) và những nguyên nhân chưa rõ.

ICSI : có phải là một kỹ thuật thụ tinh nhân tạo được hỗ trợ ?

Ðầu những năm 90, đã xuất hiện một sự đảo lộn sâu sắc do kỹ thuật ICSI mang lại(tiêm tinh trùng vào bào tương của trứng). Kỹ thuật này còn gọi là " thụ tinh trong ống nghiệm có hỗ trợ", kỹ thuật này là tiêm tinh trùng vào trứng trong quá trình thụ tinh trong ống nghiệm. Kỹ thuật này được sử dụng hàng đầu( 83%) dành cho những cặp vợ chồng không thể có con được chỉ do người đàn ông hay không.

Nguyên nhân vô sinh nam giới thường do số lượng tinh trùng không đủ, thậm chí trong tinh dịch không có tinh trùng( khi đó cần phải nhờ đến phương pháp lấy tinh trùng qua chọc tinh hoàn). Trong tổng số các trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm tại Pháp năm 1998 thì có đến hơn 40% trường hợp bằng kỹ thuật FIV-ICSI ( thụ tinh trong ống nghiệm bằng cách bơm tinh trùng vào bào tương của trứng).

Theo BSGĐ