Trẻ em và bệnh quai bị

Trẻ em và bệnh quai bị

Người ta nói nhiều đến bệnh vô sinh do quai bị gây ra. Nhưng bên cạnh đó, còn có một số biến chứng khác nguy hiểm không kém.

1. Nguyên nhân nào dẫn tới bệnh quai bị?

Quai bị là một loại bệnh lý của các tuyến nước bọt, gây ra bởi một loại virus có tên là Paramyxovirus có ái tính với các tổ chức tuyến và thần kinh. Là một loại bệnh nhiễm virus thường thấy, tác động chủ yếu đến trẻ em từ 5 đến 15 tuổi.

Quai bị là loại bệnh truyền nhiễm lưu hành quanh năm với các đợt phát thành dịch thường gặp vào mùa Đông – Xuân.
 

2. Bệnh quai bị có những nguồn bệnh và đường lây nào?

Là một bệnh truyền nhiễm cấp tính gây bệnh cho người. Bệnh rất dễ lây và cho miễn dịch bền vững sau khi khỏi bệnh (không mắc lại bệnh lần 2). Bệnh lây trực tiếp qua đường hô hấp bởi các giọt nước bọt nhỏ li ti bắn ra khi bệnh nhân nói, ho, hắt hơi…

Bệnh có khả năng lây từ 7 ngày trước khi xuất hiện các triệu chứng đầu tiên và 7 ngày sau khi hết triệu chứng. Người bệnh chính là nguồn bệnh và các vật dụng có nhiễm nước bọt của người bệnh. Điều khó khăn trong việc cách ly nguồn bệnh là thời gian 7 ngày trước khi có biểu hiện lâm sàng.
 

3. Các đối tượng nào dễ mắc quai bị?

Bệnh quai bị có thể gây nhiễm cho mọi lứa tuổi, nhưng do là một loại bệnh dễ lây nên đa số các trẻ nhỏ bị mắc bệnh này. Lứa tuổi thường gặp là 5 tuổi đến 15 tuổi (khi chưa được tiêm vắc xin phòng bệnh). Qua điều tra nghiên cứu thấy trên 85% người trưởng thành đang khỏe mạnh đã có tiền sử mắc bệnh quai bị. Những nguy cơ mắc bệnh quai bị cá biệt cũng có thể gặp ở trẻ nhỏ hơn, thậm chí mới có 5- 6 tháng tuổi do kháng thể chống quai bị được hưởng thụ từ máu và sữa mẹ cũng đã bị suy giảm và hết. Nên trong thời gian có dịch và nguy cơ nhiễm bệnh lớn cũng phải chú ý bảo vệ các đối tượng này.
 

4. Triệu chứng lâm sàng của bệnh ra sao?

Sau khi bị nhiễm virus quai bị, trẻ sẽ trải qua một thời gian ủ bệnh kéo dài 18 đến 21 ngày, hoàn toàn yên lặng không bộc lộ dấu hiệu và triệu chứng gì.

Tiếp đó, bước sang giai đoạn khởi phát bệnh với các triệu chứng sốt, nhức đầu, nôn. Có thể có trước khi sưng tuyến nước bọt.

Trong các tuyến nước bọt (tuyến mang tai, tuyến dưới hàm, tuyến dưới lưỡi…) thì tuyến mang tai có tỷ lệ bị tác động nhiều hơn hẳn (tuyến này nằm ở vị trí góc hàm trước và dưới mỗi bên tai). Nói chung triệu chứng dễ thấy nhất trong bệnh quai bị là tuyến mang tai sưng to. Thường tuyến ở một bên sưng lên nhiều ngày trước khi tuyến bên kia bị sưng, nhưng đôi khi bệnh chỉ ảnh hưởng đến 1 tuyến. Trường hợp sưng cả 2 bên tuyến mang tai sẽ tạo bộ mặt của bệnh nhân có hình dáng như quả lê. Bệnh nhân nhai, nuốt khó khăn.

Các triệu chứng khi sang đến giai đoạn toàn phát sẽ hết đi trong vòng vài ngày. Nhưng bệnh nhân vẫn còn khả năng lây nhiễm cho người khác cho tới khi hết hẳn sưng, tuy nhiên bệnh khi đó có thể lan sang tuyến nước bọt khác hoặc gây biến chứng đối với một số phủ tạng khác.

Cũng cần biết là 1/3 số bệnh nhân quai bị không biểu hiện triệu chứng gì. Đôi khi, bệnh quai bị qua đi mà không hay biết do tuyến không sưng trong vụ dịch quai bị. Cũng có gặp những trường hợp bệnh nhân có triệu chứng viêm tinh hoàn (một biến chứng thường gặp ở một số bệnh nhân bị quai bị khi đã ở độ tuổi trẻ trưởng thành) nhưng tuyến nước bọt không hề sưng to.
 

5. Bệnh quai bị ở người lớn và trẻ em có gì khác nhau?

Nói chung, bệnh quai bị có diễn biến lành tính các triệu chứng thoái lui trong vòng khoảng 10 ngày và không để lại di chứng gì. Nhưng đối với bệnh nhân lớn tuổi thường cường độ các triệu chứng toàn thân (sốt, đau đầu…) tăng hơn, các biến chứng hay gặp hơn và thường có thể để lại hậu quả xấu.
 

6. Bệnh quai bị có thể gây ra các loại biến chứng nào?

Trong một số trường hợp, bệnh quai bị có thể tác động đến một số tuyến khác ngoài tuyến nước bọt:

- Viêm tinh hoàn: Sưng, đau tinh hoàn. Có thể xảy ra trước, trong hoặc sau khi sưng tuyến nước bọt và đôi khi ngay cả khi không có sưng đau tuyến. Viêm tinh hoàn chiếm tỉ lệ 2% số trường hợp quai bị. Thường khi bị viêm một bên, nhưng cũng có thể viêm sưng đau cả 2 bên (25%).

- Viêm tụy tạng (0,4%): đau nặng vùng thượng vị, trong nước tiểu có đường.

- Viêm buồng trứng, viêm tuyến giáp: hiếm gặp

Bệnh quai bị có thể gây biến chứng màng não – não:

- Viêm màng não tăng lâm ba lành tính. 16% trường hợp bị quai bị mắc phải.

- Viêm não: chiếm tỉ lệ 0,5%0. Biến chứng này có thể xảy ra ở thời điểm tuyến nước bọt đang sưng viêm hoặc sau đó 2 – 3 tuần lễ.

- Biến chứng vào các thần kinh sọ não (0,1%) gây điếc một bên hoặc cả 2 bên tai. Các biển chứng gây viêm thần kinh, viêm tủy, viêm nhiều rễ thần kinh có thể xảy ra nhưng rất hiếm gặp.
 

7. Dựa vào dấu hiệu và triệu chứng gì để xác định bệnh quai bị?

Chẩn đoán bệnh quai bị chủ yếu dựa vào triệu chứng lâm sàng và yếu tố dịch tễ.

Trong một số trường hợp  việc phải chẩn đoán phân biệt cũng phải đặt ra giữa viêm tuyến nước bọt do quai bị với các viêm tuyến nước bọt do các nguyên nhân nhiễm khuẩn, do tác động của một số thuốc điều trị, do nhiễm độc hóa chất hoặc chẩn đoán phân biệt với trường hợp tắc tuyến nước bọt do mổ.
 

8. Điều trị quai bị

Biện pháp điều trị duy nhất là điều trị triệu chứng bằng thuốc hạ nhiệt, thuốc giảm đau khi đau nhiều và thuốc chống viêm. Ăn lỏng khi bệnh nhân nhai và nuốt đau. Giữ vệ sinh răng miệng.

Khi có biến chứng viêm tinh hoàn bệnh nhân cần được nằm nghỉ, sử dụng dụng cụ đeo nâng bìu hoặc mặc quần "nhỏ" chật. Trường hợp đau nhiều có thể chườm túi đá, dùng các thuốc chống viêm.

Khi có biến chứng viêm tụy tạng có thể dùng thuốc giảm đau, thuốc chống nôn…
 

9 Làm sao để dự phòng ngăn ngừa bệnh lây lan?

Bệnh nhân cần được cách ly tối thiểu 15 ngày kể từ ngày phát bệnh.

Gây miễn dịch chủ động bằng vắc xin. Các vắc xin quai bị đang được sử dụng là vắc xin sống giảm độc lực chỉ cần tiêm một mũi duy nhất vào dưới da. Virus đã được xử lý giảm độc lực khi tiêm vào cơ thể, không còn khả năng gây bệnh và có tác dụng kích thích cơ thể sản xuất ra kháng thể chống lại virus gây bệnh quai bị.

Để tránh cho trẻ bị tiêm nhiều mũi thuốc vắc xin hiện đã có loại vắc xin kết hợp chống 3 bệnh: Sởi, quai bị, rubella.

Loại vắc xin kết hợp này được cơ thể dung nạp tốt, có tác dụng gây miễn dịch chắc chắn và bền vững.

Theo: VTCnew